khoa học thiêu đốt

– Đốt là giai đoạn oxy hóa chất thải ở nhiệt độ cao. khoa học này rất ưa thích để xử lý CTRCN và CTNH hữu cơ như cao su, nhựa, giấy, da, cặn dầu, dung môi, thuốc bảo vệ thực vật và đặc thù là chất thải y tế trong những lò đốt chuyên dụng hoặc công nghiệp như lò nung xi măng. Hiện tại, vùng KTTĐPN đang lưu tâm đến việc hòa hợp với các công ty xi măng để xử lý một vài loại CTNH (đã có dự án đốt thử nghiệm tại người dùng ximăng Holcim ở Kiên Giang). Tuy nhiên, để triển khai được theo hướng này, cần có thời gian chuẩn bị nhiều mặt, cả về pháp lý, nguồn lực thu gom vận chuyển, sự đồng thuận của số đông và cửa hàng. Theo các tài liệu kỹ thuật thì khi bề ngoài lò đốt chất thải phải đảm bảo 4 yêu cầu cơ bản: cung ứng đủ oxy cho giai đoạn nhiệt phân bằng cách đưa vào buồng đốt một lượng không khí dư; khí dư hình thành trong công đoạn cháy phải được duy trì lâu trong lò đốt đủ để đốt cháy hoàn toàn (thông thường ít nhất là 4 giây); nhiệt độ phải đủ cao (tầm thường cao hơn 1.0000C); yêu cầu trộn lẫn tốt các khí cháy – xoáy.



– kỹ thuật thiêu đốt có nhiều điểm mạnh như khả năng tận dụng nhiệt, xử lý triệt để khối lượng, sạch sẽ, không tốn đất để chôn lấp nhưng cũng có một số tránh như mức giá đầu tư, vận hành, xử lý khí thải lớn, dễ phát hành các item phụ nguy nan.

Công nghệ xử lý hóa – lý

khoa học xử lý hóa – lý là dùng các công đoạn lắp ráp chuyển đổi vật lý, hóa học để làm thay đổi tính chất của chất thải nhằm mục đích chính là hạn chế kĩ năng nguy nan của chất thải với môi trường. Công nghệ này rất phổ biến để thu hồi, tái chế chất thải, đặc biệt là một số loại CTNH như dầu, mỡ, kim loại nặng, dung môi.=> Công ty xử lý chất thải công nghiệp tai tp hcm => giá xử lý rác thải công nghiệp

Biện pháp tái chế, thu hồi chất thải bằng Công nghệ hóa – lý chỉ thực sự đem lại tốt nhất kinh tế và môi trường cùng với những người dân xử lý chất thải quy mô lớn, đầu tư khoa học tiên tiến để có thể thu hồi vật phẩm từ chất thải. một số biện pháp hóa – lý thông dụng trong xử lý chất thải như sau:

Trích ly: là công đoạn tách các cấu tử ra khỏi hỗn hợp nhờ một dung môi có kỹ năng hòa tan chọn lọc một số chất trong hỗn hợp đó. Trong xử lý chất thải, công đoạn lắp ráp trích ly thường được ứng dụng để tách hoặc thu hồi các chất hữu cơ có lẫn trong chất thải dầu mỡ, dung môi, hóa chất bảo vệ thực vật… Sau khi trích ly, người ta thường thu hồi lại dung môi bằng cách chưng cất hỗn hợp. sản phẩm trích ly còn lại có thể được tái dùng hoặc xử lý bằng cách khác.
Chưng cất: là công đoạn lắp ráp tách hỗn hợp chất lỏng bay hơi thành những cấu tử đơn nhất phụ thuộc độ bay hơi khác biệt, ở những nhiệt độ sôi không giống nhau của mỗi cấu tử chứa trong hỗn hợp đó, bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần bay hơi và ngưng tụ. công đoạn lắp ráp chưng cất dựa trên cơ sở là các cấu tử của hỗn hợp lỏng có áp suất hơi khác biệt, khi đun nóng, những chất có nhiệt độ sôi thấp sẽ bay hơi trước và được tách riêng ra khỏi hỗn hợp.

Trong thực tế xử lý chất thải, công đoạn lắp ráp chưng cất thường gắn với trích ly để tăng cao kỹ năng tách sản phẩm.

Kết tủa, trung hòa: dựa trên phản ứng tạo sản phẩm kết tủa lắng giữa chất bẩn và hóa chất để tách kết tủa ra khỏi dung dịch. công đoạn lắp ráp này thường được ứng dụng để tách các kim loại nặng trong chất thải lỏng ở dạng hydroxyt kết tủa hoặc muối không tan. Ví dụ như việc tách Cr, Ni trong nước thải mạ điện nhờ phản ứng giữa Ca(OH)2 với các Cr3+ (khử từ Cr6+) và Ni2+ tạo ra kết tủa Cr(OH)3, Ni(OH)2 lắng xuống, lọc tách ra đem xử lý tiếp để trở nên Cr2O3 và NiSO4 được dùng làm bột màu, mạ Ni.

Oxy hóa – khử: là giai đoạn dùng các tác nhân oxy hóa – khử để tiến hành phản ứng oxy hóa – khử, chuyển chất thải độc hại thành không độc hại hoặc ít độc hại hơn. Các chất oxy hóa – khử thường được sử dụng như Na2S2O4, NaHSO3, H2, KMnO4, K2Cr2O7, H2O2, O3, Cl2.

Trong thực tế xử lý chất thải, các công đoạn xử lí nước sạch oxy hóa với các tác nhân khử như Na2S2O4, NaHSO3, H2 thường được áp dụng để xử lý các kim loại đa hóa trị như Cr, Mn, biến chúng từ mức oxy hóa cao, dễ hòa tan như Cr6+, Mn7+ trở về dạng oxyt bền vững, không hòa tan Cr3+, Mn4+. Ngược lại công đoạn lắp ráp khử, với các tác nhân oxy hóa như KMnO4, K2Cr2O7, H2O2, O3, Cl2 cho phép phân hủy các chất hữu cơ nguy khốn như phenol, mercaptan, thuốc bảo vệ thực vật và cả cyanua thành những item ít độc hại hơn.

khoa học chôn lấp hợp vệ sinh

– Chôn lấp hợp vệ sinh là biện pháp tiêu hủy chất thải được sử dụng rất nhiều trên nhân loại. Trước đây, nhiều nước hiện đại như Anh, Nhật cũng dùng biện pháp chôn lấp, kể cả một vài loại chất thải hạt nhân, lây nhiễm hoặc độc hại, nhưng trước khi chôn lấp phải được cách ly an toàn bằng các vật liệu ưng ý như chì, bêtông nhiều lớp để chống phóng xạ. Theo khoa học này, CTRCN và CTNH dạng rắn hoặc sau khi đã cố định ở dạng viên được đưa vào các hố chôn lấp có ít nhất 2 lớp lót chống thấm, có hệ thống thu gom nước rò rỉ để xử lý, có hệ thống thoát khí, có giếng khoan để giám sát tài năng ảnh hưởng đến nước ngầm.

– vị trí xây dựng bãi chôn lấp CTRCN và CTNH phải cách xa khu dân cư lớn hơn 5 km; giao thông dễ dàng, nền đất phải ổn định, chống thấm tốt, mực nước ngầm thấp… Việc thành lập hố chôn lấp CTRCN và CTNH phải theo đúng các quy chuẩn thiết kế về kích thước, độ dốc, các lớp chống thấm đáy và vách, xử lý nước rò rỉ, khí gas…
– Để tăng lên hiệu quả tiêu dùng hố chôn, việc chôn lấp CTRCN và CTNH thường kết hợp với cố định và hóa rắn chất thải trước khi chôn thông qua việc đưa thêm những chất liệu khác vào chất thải để làm thay đổi tính chất vật lý, tăng sức bền, giảm độ hòa tan, giảm độ lan truyền chất thải độc hại ra môi trường. Biện pháp này cũng thường được sử dụng trong ví như không thể tiêu dùng các biện pháp cải tạo sinh học hay đốt chất thải. Vật liệu để đóng rắn rộng rãi là ximăng, hoặc có thể trộn thêm vào đó những chất vô cơ khác để tăng độ định hình và kết cấu. Tỷ lệ ximăng phối trộn nhiều hay ít tùy thuộc vào từng loại CTNH cụ thể. thông thường sau khi đóng rắn hoàn toàn, người ta sẽ tiến hành kiểm tra tài năng hòa tan của các thành phần độc hại trong mẫu bằng cách phân tích nước dịch lọc để xác định một số chỉ tiêu đặc trưng rồi cùng với tiêu chuẩn, nếu đạt tiêu chuẩn sẽ được phép chôn ở bãi rác công nghiệp, nếu không đạt thì phải ngày càng tăng tỷ trọng ximăng trong đó cho đến khi đạt tiêu chuẩn.

– Ở Việt Nam hiện tại chưa có tiêu chuẩn này. Chúng ta có thể tham khảo tiêu chuẩn chôn lấp của Nhật Bản. Theo tiêu chuẩn này, chất thải rắn chỉ cần ngâm và khuấy trộn liên tục 6 giờ trong nước cất, sau đó lọc và phân tích nước dịch lọc để xác định một vài chỉ tiêu đặc trưng cho loại chất thải đó, rồi so với bảng tiêu chuẩn được đưa ra trong bảng 2.

Trên đây là các giải pháp khoa học có tính chọn lọc nhằm mục đích hỗ trợ các tác động xử lý chất thải ngay tại nguồn, phục vụ nhu cầu thực tiễn, hoặc cũng có thể áp dụng ở những quy mô lớn hơn trong vùng khi điều kiện cho phép

DANH MỤC CHẤT THẢI nguy nan (2/10/2006)

CÁC TÍNH CHẤT CỦA CHẤT THẢI gian nguy
Các chất thải được phân loại là chất thải nguy khốn khi có ít nhất một trong các tính chất sau:

– Dễ nổ (N): Các chất thải ở thể rắn hoặc lỏng mà bản thân chúng có thể nổ do kết quả của phản ứng hoá học (tiếp xúc với ngọn lửa, bị va đập hoặc ma sát), phát triển các loại khí ở nhiệt độ, áp suất và tốc độ gây thiệt hại cho môi trường kế bên.



– Dễ cháy (C): gồm: => Hết date là gì

+ Chất thải lỏng dễ cháy: là các chất lỏng, hỗn hợp chất lỏng hoặc chất lỏng chứa chất rắn hoà tan hoặc lơ lửng có nhiệt độ chớp cháy không quá 550C.

+ Chất thải rắn dễ cháy: là các chất rắn có kỹ năng sẵn sàng bốc cháy hoặc phát lửa do bị ma sát trong các điều kiện vận chuyển.

+ Chất thải có tài năng tự bốc cháy: là chất rắn hoặc lỏng có thể tự nóng lên trong điều kiện vận chuyển chung, hoặc tự nóng lên do tiếp xúc với không khí và có kĩ năng bắt lửa.

=> https://www.xulychatthaicongnghiep.n...y-hai-tai.html