về chuyện môi trường và xử lý chất thải đô thị ngày càng được lưu tâm, nhất là tại các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía nam như: TP Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Bình Dương,… Nhiều giải pháp đã được đưa ra, trong đó, mô hình câu kết vùng để xử lý chất thải, rác thải được kỳ vọng nhất. Tuy nhiên, sự xung đột giữa lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường ở các địa phương đã khiến mục tiêu giảm ô nhiễm chưa đạt hiệu quả nhất như mong muốn.=> Công ty xử lý chất thải công nghiệp tai tp hcm


Nước sông Đồng Nai bị ô nhiễm trầm trọng. (Ảnh: Tùng Quang)

Theo tính toán, khối lượng chất thải rắn phát sinh ở tám tỉnh, thị trấn vùng kinh tế trọng điểm phía nam (gồm TP Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang) ngày nay là 10.291 tấn rác thải sinh hoạt/ngày (trong đó, riêng TP Hồ Chí Minh khoảng 7.500 tấn/ngày) và 11.824 tấn rác thải công nghiệp/ngày. Ước tính, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt của cả vùng đến năm 2020 sẽ khoảng 20.623 tấn rác thải sinh hoạt/ngày (trong đó TP Hồ Chí Minh khoảng 9.814 tấn/ngày), chưa kể lượng rác thải công nghiệp có thể tương đương. Dường như đó, mặc dù coi nhiệm vụ xử lý chất thải là rất quan trọng nhưng với việc nhiều địa phương xử lý rác một cách nhỏ lẻ, kỹ thuật lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, đã không thể giải quyết được thực trạng nêu trên. Ngay từ năm 1999, TP Hồ Chí Minh đã triển khai ba chương trình phân loại rác tại nguồn, nhưng toàn bộ đều thất bại, dù rằng tốn không ít kinh phí. Nguyên nhân được cho là thiếu đầu tư đồng bộ, từ thùng rác tại gia đình, đến phương tiện vận chuyển, các bãi rác phân loại, tái chế chưa đúng đề nghị. Nhiều chuyên gia cho rằng, nguyên nhân cơ bản vẫn là tư duy lối mòn, góc nhìn ngắn hạn và thiếu những biện pháp căn cơ, quyết liệt của các cấp chính quyền, ban, ngành liên quan.

Một nguyên nhân khác khiến các chương trình xử lý rác thải chưa đạt được tốt nhất cao chính là sự xung đột giữa tiện dụng kinh tế của từng địa phương với công tác bảo vệ môi trường. Hình ảnh ô nhiễm trầm trọng tại sông Ðồng Nai là minh chứng điển hình nhất. Cụ thể, sông Ðồng Nai chảy qua 11 tỉnh, là nguồn sản xuất nước chính cho cả khu vực Ðông Nam Bộ với khoảng 20 triệu dân. Ở bất kỳ địa phương nào, cũng đều nhận thấy tầm cần thiết cũng như mức độ ô nhiễm của con sông này, nhưng các địa phương vẫn chưa có động thái gì để giảm mức độ ô nhiễm. Theo thống kê, có 62,2% lượng nước thải sinh hoạt, hơn 100 nghìn m3 nước thải công nghiệp, 10.142 m3 chất thải y tế/ngày đêm thải thẳng ra sông hoặc không được xử lý triệt để. Trong số 139 cơ sở y tế đang hành động, chỉ 48 cơ sở có sơ đồ xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, còn lại 91 bệnh viện, cơ sở y tế chưa có hoặc có nhưng không đạt đề nghị. Nhiều đơn vị còn xả nước thải trực tiếp ra bên ngoài mà không qua khu xử lý nước thải tập trung. Ðó là chưa kể, 23 tòa tháp thủy điện ở khu vực thượng nguồn đang từng ngày “tàn phá” con sông này.

=> xử lý chất thải công nghiệp - báo giá xử lý chất thải nguy hại

Theo các chuyên gia, nếu không có các biện pháp căn cơ để hạn chế xả thải thì mọi giải pháp bảo vệ môi trường trở nên vô nghĩa. Phó Trưởng đoàn Ðại biểu QH thị trấn Hồ Chí Minh, TS Trần Du Lịch cho rằng, hiện tại, định chế quản lý vùng đã có, việc đặt ra là cần xác định rõ bổn phận và chế độ điều phối để tăng cao tốt nhất tác động. Ngay cả với sông Ðồng Nai, theo các nhà khoa học, muốn cải thiện số lượng cũng như chất lượng nguồn nước con sông này, yếu tố trước tiên, quan trọng nhất là phải giữ được thể tích rừng đầu nguồn. Kế đến là tránh tăng trưởng ngành chế tạo nhạy cảm với môi trường. Cuối cùng là buộc các nhà phân phối đang hành động phải xử lý tốt chất thải, nước thải trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên, cả ba yếu tố nêu trên đều rất khó thực hiện khi các tỉnh đều “mạnh ai nấy làm”, miễn là chuyên dụng cho mục đích kinh tế cho tỉnh mình. Khi nào mối “xung khắc” giữa kinh tế và môi trường còn tồn tại thì khi đó, tình trạng ô nhiễm vẫn sẽ còn báo động.=> https://www.blogmamnon.top/2017/11/n...-giao-duc.html

View more random threads: